Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

2008 Dec

TITLE: Entry for December 31, 2008
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/31/2008 09:57 am
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Vốn không để ý thời gian.
Càng không muốn để ý thời gian.
Nhưng thế nào mà những ngày này mình cứ phải nhìn vào lịch. :-(

Sáng nay xé tờ lịch cuối cùng. Chính xác thì nó là tờ kế cuối. Tờ cuối cùng còn lại, 31/12. Trên đó có câu: Phải làm chủ bản thân để có thể làm chủ thế giới. Charles Quint.
Tu Thân - Tề Gia - Trị Quốc - Bình Thiên hạ.

Lỡ nói chuyện thời gian. Nếu bây giờ bỗng nhiên có anh bạn đến kế bên. Áo choàng đen. Lưỡi hái to đùng. Nụ cười toàn răng (không lợi !!). Lấp lánh lân tinh trong hố mắt sâu hoắm. And he says: "Hey, stop here, let's go!". Mình sẽ vui vẻ đi cùng anh ta. Ngay lập tức. Vào cuộc dạo chơi mới bay bổng biết bao (!?).
Như Mr. Ân nói, kiểu đánh cờ lười. Suy nghĩ không quá 2 nước.
Đa số người không vậy. Ví chẳng may gặp phải anh bạn áo đen của mình, họ kịch liệt chống cự.
Nhưng mấy ai trong số họ biết đánh cờ (?!). Và suy nghĩ hơn 1 nước (!?).

Thật thế.
Hãy Sống như ngày mai sẽ Chết.
Thế là trút hết nhiệt huyết hay tặc lưỡi buông xuôi ?
Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu.
If Tomorrow Comes.
Present is a Gift.

Chiều nay đi trực. Ca trực cuối cùng của năm 2008 ! Hay là ca trực đầu tiên của năm 2009 ?
Chẳng phải kết thúc là khởi đầu ?



TITLE: Cuối 2008
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/27/2008 07:42 pm
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Năm (gần) hết. Tết (sắp) đến.
Nhập thế cục bất khả vô văn tự ...
Thôi cũng tranh thủ viết vài dòng. Kẻo nay mai ham chơi, ngoảnh mặt lại thì năm mới đã đến.

Giáng sinh qua. Bước sang tháng Chạp. Nhìn lịch cũng chả để ý, nếu không thấy cảnh đông đúc quen thuộc trước quán Thúy. Quán chay nổi tiếng ĐN này khách khó len vào mỗi kỳ đầu cuối tháng hay rằm. Sự khá giả của xã hội này ẩn chứa quá nhiều sám hối ăn năn ?!
Báo chí ngày nào chẳng kín những đâm-chém-bắn-giết-cướp-hiếp, và "cái ấy" cùng "chuyện ấy" (!?).
Bần cùng sinh đạo tặc ...
Những năm trước đã nhiều. Đạo văn, đạo nhạc, đạo công trình tiến sĩ. Lâm tặc, cẩu tặc, đinh tặc, cả ... mông tặc (!?).
Giặc giã đâu ra lắm thế ? Từ phương Bắc đến hay phương Đông lại ? Hay giặc đến tự trong lòng ?
Giặc là dân ? Hay dân bị đem làm giặc ?
Ăn mày là Ai ? Ăn mày là Ta
Đói cơm rách áo hóa ra Ăn mày.
Nhìn ra thế giới, rầu lại thêm rầu. Rầu không buồn nhắc.

Sáng nay vừa đọc vừa nghe nhạc. Thế nào mà đúng lúc đọc đến cuối entry mới của Sầu riêng, đoạn ông già so lại phím cây đờn cũ, dạo bản Dạ Cổ Hoài Lang, thì máy mình cũng vừa hát:
Từ là từ phu tướng, bảo kiếm sắc phong lên đàng ...
Entry "Giang hồ vặt".
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà.



TITLE: Entry for December 23, 2008 Giáng sinh
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/23/2008 09:06 pm
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


  Nô en mưa, Nô en mưa ...

Nói rằng không khí Nô en. Không khí chẳng mấy.
Chỉ là các cửa hàng mặt phố với đủ chiêu tiếp thị. Những bộ áo quần đỏ viền trắng. Vài cái động giả xam xám nhỏ nhoi. Và khắp nơi Jingle Bells, Jingle Bells.
Được cái lạnh. Mất cái mưa.
Tà tà đạp xe dưới mưa lạnh. Đoạn đường Lê Duẩn đầu cầu Sông Hàn giăng sáng đèn màu. Nhà thờ Con Gà im lìm tối.

Mừng ngày Chúa giáng sinh.



TITLE: Entry for December 21, 2008
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/21/2008 09:45 am
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


Sáng Chủ Nhật.
Buồn dăm phút.
Thức giấc. Cuộn mình trong chăn với những ý nghĩ thật lười nhác.
Nghe trời chợt đổ mưa to. Lại bắt đầu một ngày u ám?
May sao, một lúc thì tạnh mưa. Và nắng chiếu. Và một lúc nữa thì trời xanh tung tăng mây trắng.

Vừa trở về từ một chuyến đi ngắn. Quá ngắn và đột ngột.
Cũng may vào mùa thưa khách. Chiều thứ Sáu 3h quyết định, 7h10 máy bay cất cánh vào Buôn Mê Thuột. Lần đầu tiên đến đây. Ấn tượng với thành phố sạch sẽ. Nhiều không gian thoáng đãng. Rợp cây xanh. Tiếc là không có thời gian thưởng thức.
Về Krong Ana. Qua Buôn Trấp đến Quảng Điền.
17h50 thứ Bảy bay về.
Chuyến đi đúng giờ. Chuyến về hơi trễ. Ngồi trong máy bay như trong một cái cối xay lúa :-)

Nói nôm na một chuyến đi như "cậu". Ngồi trong xe ô tô thấy người dân ngập dưới bụi đất đỏ đến kinh hoàng. Cao nguyên đang vào mùa khô. Gió hanh. Trưa - nắng. Sáng, tối - lạnh.
Thị xã, thị trấn mang tên còn chút dấu vết buôn làng. Nữa thì toàn những người đi kinh tế mới cuối những năm 70 thế kỷ trước. Vượt qua hơn 10 năm khó khăn, đắng cay vất vả. Phải đến 10 năm cuối thế kỷ 20 mới bất đầu mở mặt. Những gia đình chịu thương chịu khó, rắn rỏi nhất ngày nay bắt đầu nở nụ cười trên quê hương mới. Những người con sinh ra lớn lên trên đất này lại tỏa đi muôn nơi.
Đất cao nguyên thể hiện một bộ mặt hơn hẳn đại đa số các làng quê miền xuôi. Thị trấn, thị tứ đường trải nhựa rộng rãi, nhà cửa khang trang. Làng quê nhà nối nhà. Sân vườn thoáng rộng. Đồng ruộng toàn chạy máy bơm, máy bừa. Đường ngang, ngõ dọc thẳng tắp như phố thị.
Tiếc không có thời gian lên các rẫy cà phê. Cũng chưa thăm thú được hồ, thác. Vùng này người dân cư trú theo thôn xóm chung gốc gác đất Quảng. Nên giọng nói, món ăn, tên gọi cũng quen thuộc: Hòa Khánh, Điện Bàn, ...

Cô con gái 6 tháng tuổi của Hòa và Lên, nhìn vào chỉ thấy cặp má bánh đúc :-) Má phính. Bầu bĩnh trẻ thơ ...

Vẫn mong có dịp dài ngày trở lại miền đất này ...








Được đăng bởi Thủy Nguyệt vào lúc 9:27



TITLE: Em ở đâu?
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/14/2008 10:22 am
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


  Où es-tu? Marc Levy. 2001.Mình cho rằng đây chỉ là một cốt chuyện nhẹ nhàng. Có phần cổ điển.
Thử chia thành hai phần tách biệt: Phần đầu kể câu chuyện con người ta có thể xa nhau như thế nào; Và phần sau - người với người lại có thể xích lại gần nhau ra sao.

Susan và Philip sinh ra và lớn lên cạnh nhau. Tình bạn từ thuở ấu thơ trở thành tình yêu sớm như một tất yếu (?). Rồi đường đời rẽ ra. Chàng trai dần thành công trong mỹ thuật; trong khi cô gái lại dấn thân vào nguy hiểm. Công việc khiến cô ngày càng cứng rắn hơn; anh chờ đợi trong đa cảm. Đơn giản là con đường đã rẽ thành hai nhánh, dần xa ... Không phải một bức tường ngăn cách để có thể phá vỡ (?).
Bức tường vô hình ngăn cách giữa cô bé Lisa và gia đình Philip, Mary và Thomas. Đó là bức tường ám ảnh của quá khứ. Bức tường bị phá vỡ. Bằng tình yêu và sự thấu hiểu. Họ thành một gia đình.

Câu chuyện về những người Mỹ ở New York. Được viết bởi ngòi bút của một người Pháp. Có thể vì thế mà câu chuyện khá mềm mại? (!). Nhà văn dù sao cũng có thời gian sống trên đất Mỹ.
Mình đọc câu chuyện chỉ vì cái tên tác giả: Marc Levy. Mình không biết ông là ai cho đến cách đây không lâu. Một nhà văn Pháp được giới trẻ Việt Nam đón tiếp nồng hậu. Không chắc những bạn trẻ đó đều đã đọc và yêu mến văn Marc Levy (?!!). Nhưng thôi, bỏ qua chán nản về một xã hội xuống cấp. Hy vọng ở một điểm sáng trong đêm.
Một điểm sáng dịu dàng. Nếu quả thực lớp trẻ nay học được cái nhìn nhân hậu ấy ...



TITLE: Tà dương giải la y
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/10/2008 09:54 pm
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:



Một ngày vui vui.

Nắng nhè nhẹ.
Lạnh se se.

Dự định mới.
Suy nghĩ mới.

Đọc thêm một bài Hán tự bài cú nữa.
Bài này Bùi Giáng tiên sinh dịch như vầy:

Tà dương giải thích xiêm y
Hoa nghiêm vi tiếu thuận tùy niêm hoa
Pháp tuyền gột bụi ta bà
Toàn phiên như thể như hà nhiên nhiên

Mình thấy khó hiểu như tiếng ... Triều Tiên (!).

Quay ra thử ngâm cứu bản tiếng Hán (?).

斜陽解羅衣
華嚴微笑自然意
法泉洗塵埃

Tà dương giải la y
Hoa nghiêm vi tiếu tự nhiên ý
Pháp tuyền tẩy trần ai

Tà dương thường được hiểu là ánh mặt trời buổi chiều. Nhưng sát nghĩa có thể hiểu là ánh nắng chiếu xiên.
Y là áo. Mà la y là áo mỏng. Chữ la này chính là "là" trong "lụa là". Lại cũng có nghĩa là lưới (!?).
Và giải thì có một nghĩa đơn giản. Như là cởi, đối lập với buộc.

Hẳn một cô thiếu nữ hớ hênh đã khiến bậc hoa nghiêm cũng phải mỉm cười (?!). Và đêm về sám tội (!!).

Thiện tai, thiện tai.



TITLE: Hạt cơ bản
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/09/2008 08:00 pm
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Viết về một truyện không muốn viết lắm.
Đọc một truyện không muốn khuyên người khác đọc.
Hạt cơ bản, (hay Hạt sơ cấp). Les particules élémentaires. Michel Houellebecq. 1998.

Tận dụng 5 ngày nghỉ. Trúc trắc một tý, cũng lướt qua. Như một hội chứng theo định hướng thị trường, quảng cáo (?!).
Cái tên như là một cuốn sách khoa học, hơn là một quyển tiểu thuyết. Và hành văn cũng như về một vấn đề khoa học. Lạnh lùng. Đều đặn. Rối rắm. Triết học. Sinh học. Về những cá thể giống đực và những cá thể giống cái. Trần trụi trong sự lựa chọn nghiệt ngã của tự nhiên. Bên cạnh những dị thể. Thông minh. Nhưng đứng bên lề.
Mà dị thể này với cá thể yếu đuối kia, tưởng chừng không điểm chung, lại có. Điểm chung đáng kể. Chung một bà mẹ. Một bà mẹ không mấy ảnh hưởng tới những đứa con của những ông bố khác nhau.
Các sinh vật này thuộc một loài tự cho mình là thông minh, là hoàn hảo, là thống trị. Homosapien. Con người.
Vì là loài người, vấn đề giữa các cá thể giống đực và các cá thể giống cái trở nên thời thượng. Tình dục.
Hưởng thụ. Không phải vấn đề sinh sản. Không phải vấn đề nòi giống.
Loài người muốn tự quyết định vấn đề sinh ra và cả vấn đề diệt vong. Tự diệt vong.

Không biết mình hiểu có hết không? Và có đúng không? Nhưng thôi.
Nói theo kiểu, dzị đi. Hì.



TITLE: Nguyễn Tuân - Đánh thơ (2)
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/07/2008 09:24 am
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Đêm hôm đó người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch. Mọi người tụ tập ở đấy đều lấy thế làm vừa lòng. Vì, ít ra, ở đây, người ta cũng chơi bời có phần được tự nhiên hơn ở trong dinh các cụ. Ông Kinh Lịch là một người trọng cái sạch sẽ của tâm hồn, nói to cùng mọi người là ông không thu tiền hồ. Ông chỉ yêu cầu ai được thơ nhiều nhất thì nên cho người lão bộc nhà ông một số tiền nhỏ mọn để đền lại cái công nó làm dầu, làm đèn, nấu cháo và bưng điếu. Ông Kinh lại còn khẩn khoản với mọi người đừng nên làm huyên náo nhà cửa lên. Ông vui vẻ nói:- Đã hay rằng vớ được câu thơ hay, ai mà chẳng muốn ngâm vang lên. Thứ nhất lại ngâm vang câu thơ thả mình vừa đánh trúng cái chữ hiểm hóc, thì ai mà bụm miệng được. Một người ngâm, cả làng phụ họa vào, ồn ào bằng vỡ chợ, cái đó cũng là thường tình. Nhưng, tôi xin các ngài biết cho là chúng ta ở trong thành, gần ba dinh Cụ Lớn, mình không nên làm náo động quá. Bình khe khẽ, đủ nghe với nhau thôi.
Cả một lũ con bạc lên mặt tài giỏi, nhìn ông Kinh Lịch cười hóm hỉnh và khoan thai bước vào chiếu giữa. Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây sáp nữa đã gắn sẵn vào đế đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến, chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh, của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng rận. Ông Phó Sứ vừa gỡ túi thơ vừa hỏi làng:
- Dạ thưa, có đánh thơ cổ phong không? Và có đánh chữ chân không?
Một con bạc ít tuổi và chừng như mới tập tõng lối chơi chữ này, hỏi lại:
- Đánh thơ cổ phong? Thôi, nếu thả thơ cổ phong thì anh em ở đây đưa tiền cho ông tiêu hết. Còn đánh chữ chân là thế nào?
Ông Kinh Lịch đang nằm bên khay đèn, ngồi nhổm dậy nói chõ xuống chiếu dưới:
- Cái ông thừa nhà tôi đến hay lẩm cẩm. Đã đi đánh thơ đòi ăn tiền thiên hạ, còn hỏi lục vấn thế nào là chữ chân. Thưa ông, câu thơ bảy chữ, đem vòng chữ thứ bảy cuối cùng cho làng đánh, thế gọi là đánh chữ chân ạ.
- Nếu thế thì đánh cả chữ trắc và cả chữ bằng à? Thôi, xin làng cứ theo như lệ mọi khi mà đánh. Đây, chúng tôi không phải là thi bá, không dám đánh chữ vần, chữ chân.
Ông Phó Sứ và Mộng Liên nhìn nhau cười; vợ chồng có ý bảo thầm nhau rằng làng cũng khôn đấy nên mới không dám trêu vào lối đánh thơ hiểm hóc này.
Lá thơ đầu tiên đã ra khỏi miệng túi gấm vẫn khư khư nằm trong tay Mộng Liên. Cả làng chăm chú nhìn và ngâm ngợi và ngẫm nghĩ. Cái gì mà ".... thượng, mai khai, xuân hựu lão"? Cuối lá thơ thả, có sẵn năm chữ thả viết xương kính: tái, sơn, đình, mộ, Văn. Cả làng ngâm:
- "Vòng" thượng, mai khai, xuân hựu lão.
Vẫn lời cái ông thừa trẻ:
- Tái, sơn, đình, mộ, Văn. Ta đánh chữ tái "Tái thượng, mai khai, xuân hựu lão". Hoa mai... nở trên mặt ngọn ải... xuân lại già nữa.
Nghĩ ngợi lâu, ông thừa trẻ trở nên do dự. Thấy ông Thông phán tỉnh, người có tuổi và vốn sành về môn thơ thả, đánh chữ Văn, ông tỏ ý ngạc nhiên:
- Văn thượng, mai khai, xuân hựu lão. Quái nhỉ! Sao lại Văn?
Rồi ông thừa cứ mân mê mãi cọc tiền, không biết nên đặt chữ gì để ông Phó Sứ phải sốt tiết lên cắt nghĩa hộ cho bằng vẻ lễ phép ngụ nhiều ngạo mạn kín đáo.
- Thưa ngài, Văn là con sông Văn chảy qua đất Lỗ, quê đức Thánh Khổng. "Mai nở trên sông Văn, xuân lại già". Cụ Phán tỉnh đánh thơ như thế, câu đó ngài cho làm lạ lắm sao?
Và, xem chừng cả làng cũng không có một ai đánh thêm được đồng nào nữa, ông Phó Sứ xin làng cho phép ông được thổi lá thơ cuộn tròn để tuyên bố cái kết quả tiếng bạc đầu tiên. Ông đã nhẹ nhàng cầm lá thơ, phồng má định thổi phù một cái. Một vài người vội vàng vứt thêm tiền đặt vào mấy chữ tái, sơn, đình. Chỉ có chữ mộ là không ai đánh cả.
Mộng Liên ngồi đánh được một phần ba bản đàn Nam bình (bị kiểm duyệt mất).
Thế rồi tiếng bạc mở.
Và cả làng đều ngã ngửa ra khi đọc rõ lá thơ thả kia là câu: "Mộ thượng, mai khai, xuân hựu lão". Cả làng nhao nhao:
- Ô, cổ nhân dùng chữ ác thật. Hoa mai nở trên nấm mồ, xuân càng già. Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô mà lần, mà đoán.
Ông Phó Sứ trước khi vơ tiền cả làng, vì không ai đánh chữ mộ, ông đã vội trình với làng một trang sách thơ mở rộng. Và tay vừa chỉ một dòng chữ in nhỏ, mồm vừa nói:
- Thưa với làng, câu này lấy ở bài Tọa phóng hạc đình của Từ Dạ.
Bao nhiêu bộ mặt tâng hẩng đều cúi cả vào trang cổ thi và ề à ngâm lại:
- "Mộ thượng mai khai, xuân hựu lão
Đình biên hạc khứ, khách không hoàn".
Hay, hay thiệt.
Ông Kinh Lịch đêm ấy thua to. Ông truyền cho người cuốn chiếu bạc và ân cần dặn vợ chồng ông Phó Sứ tháng sau có trở lại thì thế nào cũng phải tổ chức cuộc thả thơ ở ngay nhà ông cho ông gỡ lại. Ông còn nằn nì xin ông Phó Sứ làm quà cho mình tất cả những lá thơ đã dùng đánh suốt một đêm qua. Thấy nhà cái trù trừ, ông Kinh Lịch nói dỗi:
- Có cho, thì tôi giữ làm chút kỷ niệm.
Ông Phó Sứ cười, trao vào tay ông Kinh mấy chục lá thơ đã dùng đến nhầu nát rồi và thắt chặt lại miệng túi gấm còn đựng đến gần trăm lá thơ khác chưa dùng đến còn phong kín cái bí mật một chữ thơ. Rồi nhà cái nhà con chắp tay từ biệt nhau với một câu đính ước: "Cữ thượng tuần tháng sau, xin lại gặp nhau ở đây nữa".

Nhưng ngày thượng tuần tháng sau, ông Phó Sứ và Mộng Liên không trở lại. Rồi quá cữ trung tuần, rồi qua luôn cả cữ hạ tuần. Nhiều khách thả thơ đã dầy công chờ đợi vợ chồng ông như một cái bóng chim như một cái tăm cá.
Một hôm có người ở kinh ra, nói chuyện cùng ông Kinh Lịch:
- Ông Phó Sứ chết ở chân Đèo Ngang rồi. Mộng Liên giờ là người góa và đang lúng túng tìm người giữ cho cây đàn. Số là đi qua Hoành sơn quan, thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la. Ngay chỗ dưới chân ngọn tường ải có chữ "Đệ nhất hùng quan" của đức Thánh tổ ngự phê ấy, ông ạ. Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết đường. Mộ để sát ngay bên đường thiên lý. Cái giống ma trơi này, sẽ thiêng vô cùng. Rồi đây những lúc thanh vắng, những lúc trăng bãi gió ngàn, hồn ma tha hồ mà trêu ghẹo khách bộ hành vô Kinh đấy ông ạ. Cám cảnh cho lão, đâu có bậc thời sĩ quê vùng Ngũ Quảng có làm đôi câu đối điếu. Xin đọc ông nghe:
Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi,
Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.



TITLE: Lan man đọc (4)
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/05/2008 10:05 pm
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Đọc sách cũ.
Hán tự hài cú (漢字俳句) của Ngô Văn Tao.
Có lẽ phải gọi chính xác là Bài cú (俳句). Chính là thể loại haiku (はいく - 俳句) nổi tiếng của Nhật Bản.
Haiku vốn chỉ có 3 câu: câu đầu 5 tiếng, câu giữa 7 tiếng và câu cuối 5 tiếng. Nói thế nhưng những cao nhân ít khi câu nệ lệ luật. Tiếng Nhật đa âm, haiku 17 tiếng thường bao gồm khoảng 6, 7 chữ chứ không nhiều. Thành ra mỗi câu chỉ một hai từ. Quá ngắn. Câu chữ như chuyện thiền.
Thấy bài cú Hán tự giữ luật số tiếng trong mỗi câu. Hán tự đơn âm nên lượng chữ, từ cũng phong phú hơn.
Thoạt đầu mình thích bài sau đây vì có lời dịch của Bùi Giáng tiên sinh:

古 庭 古 庭 兮
閑 池 靜 水 雨 蛙 動
晶 空 起 一 音

Cổ đình Cổ đình hề
Nhàn trì tĩnh thủy vũ oa động
Tinh không khởi nhất âm

Đọc như xem bức tranh thủy mặc. Ao nhỏ phẳng lặng, nước yên, trước ngôi đình cổ. Bỗng một con chẫu nhảy xuống. Vang lên một tiếng trong không gian im ắng. (Tõm?!).
Bùi Giáng dịch thơ:

Đường xưa bến cũ ếch kêu
Kiền khôn thành tựu gió vào tinh không

Quả thực xưa nay thường khi đọc Bùi Giáng chẳng mấy dễ hiểu (!).
Thực lòng đọc thơ thấy tranh đẹp. Lại gồm cả thanh âm. Nhưng chưa thật nhập tâm với vần điệu. Mới tò mò đọc bản gốc tiếng Nhật. Hóa ra đây là một trong những bài nổi tiếng, nếu không muốn nói chính là bài nổi tiếng nhất, của nhà thơ được thừa nhận là người khai sinh ra haiku! Matsuo Munefusa, lấy bút danh Matsuo Basho (松尾 笆焦), đọc âm Hán Việt là Tùng Vĩ Ba Tiêu, (1644-1694). Ba tiêu (笆焦) có nghĩa là cây chuối (?!).

古池や
蛙 とびこむ
水の音

ふる いけ や
かわず とびこむ
みず の おと

furu ike ya
kawazu tobikomu
mizu no oto

Thực sự là bối rối với nhạc điệu (!). Bức tranh ở đây còn súc tích hơn:

Ao cũ
Ếch nhảy vào
Tiếng của nước.

Có bản dịch thế này:

Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.

Vất vả một chút với từ điển. Không tìm thấy từ kawazu (かわず), chỉ thấy con ếch là kaeru (かえる - 蛙). Thành câu giữa là 蛙 飛び込む.
Cuối cùng chỉ thấy sự súc tích.

Ao
Ếch
Tõm.

Hihi.



TITLE: Nguyễn Tuân - Đánh thơ (1)
AUTHOR: Lãn Ông
DATE: 12/05/2008 08:48 am
STATUS: publish ALLOW COMMENTS: 0 CATEGORY: TAG: -----
BODY:


 Giữa quãng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoàng Tôn Tuyên hoàng đế, đất Thuận Hóa có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ.
Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời.
Cái thời ấy là thời của Nhà nước Bảo hộ tạm gọi là yên trong cuộc bình định. Nơi quê hương, vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc còn gửi mãi về cái mùi diêm sinh đem từ ngoài bờ cõi vào. Nhưng, mặc kệ, dưới chân một nếp hoàng thành, bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng đàn hát trên mặt nước một con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng đưa ra rất rộng. Thấy thế, một vài ông già mặc áo vải, mỗi lúc chống gậy trúc ra bến, ngắm bóng nắng tàn rụng phía bên tả ngạn sông Hương, đã thốt ra những lời than thở.
Nhưng, giọt lệ già của người mặc áo vải rỏ rơi xuống thì cát nơi bãi sông cứ việc thấm hút và uống cạn. Và có một cái gì vẫn còn lại mãi mãi ở hai bờ sông Hương thì vẫn chỉ là những tiếng hát. Tiếng đàn hát của giai nhân.
Họ là một bộ ba có ba cái tên rất đẹp, rất thơ mộng: một người là Mộng Liên, một người là Mộng Huyền và một người nữa tên là Mộng Thu. ở Huế, những cái miệng tuổi tác đã bắt đầu theo thị hiếu mà nói luôn luôn đến ba cái Mộng xinh kia và luôn luôn tấm tắc: "Thần kinh hữu tam Mộng".
Giữa cái thế giới đàn sáo của thành đô, ba cái Mộng xinh đẹp mỗi đêm rải rác ra mọi bến đò tản mát ở dọc sông Hương, những cái sở đắc về thanh và sắc của mình.
Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ trôi một mình theo những cái xoáy nước yếu đuối. Mỗi đêm, ba cái Mộng gõ một nhịp phách, bấm một dây tơ và để rồi phá cười lên vài trận. Để cho cái xã hội đàn ông mặc áo xanh ẩm ướt phải thèm muốn. Thế rồi trong một đêm tốt đẹp, có một ông Phó Sứ giữ lăng, đã đứng lên làm chủ cho một cái Mộng. Mộng Liên đã về hẳn với quan Phó Sứ.
Một cái miệng cười, mười ngón tay tháp bút trước kia là của chung thiên hạ, bởi vì nó không có sở cứ, bây giờ đã trở nên của riêng một nhà. Cặp vợ chồng ấy là một lứa đôi tài tử.
Ông bà Phó Sứ giữ lăng không mấy khi ở yên một chỗ.
Cái nghề của họ buộc họ phải xê dịch luôn luôn và mãi mãi. Suốt một dải Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức này.
Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh. Cái chiếu bạc thả thơ của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giầy trên mọi chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ. Họ nhờ vả cổ thi, kiếm ra cũng được rất nhiều tiền. Nhưng cái giống lãng tử cầm tiền thường không nóng lòng bàn tay và có mấy khi họ nghĩ đến sự bảo hiểm cho ngày mai của mình. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa bao giờ nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào.
Quê hương của họ là Cờ bạc và Đờn hát. Nhà cửa đôi lưu đãng ấy gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ. Cái lãi trong đời bấp bênh của họ là ở chỗ nhiều người đã nhắc nhỏm tới cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, mỗi khi lứa đôi chậm tới hay là đã lâu rồi mà chưa thấy trở lại. Người đánh thơ được, người đánh thơ thua xiểng liểng, ai ai cũng đều nhớ đến họ những khi xa vắng. Hình như bấy nhiêu người đều nhận ông Phó Sứ là đáng mặt làm nhà cái cho những buổi thả thơ rất nên thơ; mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn thua từng mấy chục bạc, người ta đều ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều ngâm vang cả nhà, chừng như muốn thi nhau một cái giọng tốt, chứ đồng tiền mất đi hay thu về được gấp ba số đặt, thời có gì là đáng kể. Giữa hai tiếng bạc trên một chiếc chiếu la liệt những mảnh thơ đề, Mộng Liên đêm đêm kề đùi tựa má ông Phó Sứ, lại đánh đàn, lại ca Nam bằng, ca Nam ai.
Có lẽ không riêng gì ở một nơi, mà ở mọi nơi, những lúc sốt ruột chờ mong vợ chồng ông Phó Sứ trở lại với túi thơ, mỗi buổi gần giờ tan buổi hầu, những lúc việc quan thanh thản, bao nhiêu thầy thừa phái ở các ty Phiên, ty Niết và những ông Hậu bổ, Thông Phán tỉnh, Kinh Lịch đã nói những câu:
- Quái lạ, sao cữ này hai ông mụ đó đi lâu quá chưa trở lại thả thơ cho bọn mình chơi hè!
- Đánh thơ của lão Phó Sứ có cái rất thú là được thua chi chi, mình cũng đều lấy làm thích cả. Bởi vì lão biết chọn những câu rất hay mà thả. Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết cả người.
- Chẳng thế mà quan Kinh ngài đã mấy lần phải bán lương non, thua nhẵn.
- Chơi cái gì thì chơi, chứ đến cái lối đánh thơ thả, cái nghiệp những anh đã hay chữ lại thêm tự phụ, là chỉ mãn kiếp thua không còn lấy một đồng một chữ tiền.
- Và có nhiều đứa dốt cay dốt đắng, thì lại mỏi tay vơ tiền.
- Quan bác có biết tại sao không? Đệ cho không có cái nào lợi hại bằng lão Phó Sứ. Hắn lấy ý tứ ra mà dò tiếng bạc của từng người. Nếu lão biết quan bác thích lối thơ liệu, đọc lên âm thanh và niêm luật tròn trĩnh, nhịp nhàng, thế nào lão cũng rình lão thả một đôi chữ rất quê kệch hay là khổ độc. Quan bác mấy khi lựa những chữ quê kệch mà đặt tiền. Vậy nên lão vòng những chữ rất ngớ ngẩn đó. Thế là quan bác mất nghiệp, nếu bữa đó, quan bác lại đặt tiền đến tột cửa. Và lão lại còn bán cho mấy cửa đánh những chữ ngô nghê mà lão biết trước sau mình cũng khinh rẻ.
- Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Ngài nghĩ, tôi đã bắt thóp được một câu do sự vô ý của mụ Mộng Liên. Nguyên hôm ấy, lão Phó Sứ cho thả năm chữ: cầm, thử, đan, thiếp, sầu trong một câu thơ mà lão "vòng" chữ đầu "Vòng tâm duy hữu dạ đăng tri". Kể cũng khó đánh đấy chứ. "Ngọn đèn dầu ban đêm soi tỏ, biết cho tấm lòng gì?" Lòng đàn? Lòng son? Lòng một thiếu phụ? Lòng sầu? Phân vân lạ. Bỗng tôi thấy mụ Mộng Liên ngồi cạnh, nhìn chăm chú vào chữ thả đứng đầu là chữ cầm, rồi mụ thánh thót bấm khẽ mấy tiếng đàn nguyệt. Tôi đánh ngay chữ cầm ngài ạ. Tôi đoán già là lúc ở nhà vòng chữ, chồng đưa đùi cho vợ gối, lão Phó Sứ đã bị tiếng đàn của vợ dạo lên buổi đêm ảnh hưởng nên lão mới thả chữ cầm. Và đánh chữ cầm, thế nào cũng ăn. Hôm ấy tôi đặt hai chục được sáu chục và muốn tỏ ý cám ơn người đánh đàn một cách kín đáo, hôm sau tôi đã mua biếu Mộng Liên một cây đàn nguyệt có bốn cái trục bằng ngà voi nẩy. Đấy, chơi thơ, nhiều khi tâm lý nhiều vào là ăn.
- Tâm với lý gì. Có biết thơ thả, lão Phó Sứ thường mua lại của ai không? Mua của Tào Sắt bên phủ Tuy Lý Vương! Hai ba đồng, tiền công vòng một trăm câu. Thơ Tào Sắt mà thả, thì đừng có hòng mà ăn.
- Này, các ngài có được rõ câu chuyện lão Phó Sứ dám thuê thợ bên Tàu khắc riêng cho mình mấy tấm thạch bản in thành một tập thơ mỏng không? Lão ra khuôn mẫu cho họ in nhiều câu có những chữ lạ, rất ngộ nghĩnh và mỗi khi đem câu đó ra mà thả thực không ai ngờ đến. Nhưng chỉ có khi nào đánh to lắm, lão mới giở đến bí thuật này. Lão tìm đến những quan to và có tiếng là hay chữ, lão mới thả một hai câu thật gay go. Các quan thua, đòi lão phải dẫn chứng cổ thi, lão giả vờ bịt tên sách lại, che kín lề, mép và gáy cuốn thơ, chỉ cho xem đủ cái câu thả đó và đủng đỉnh, tủm tỉm trình với cả làng rằng đó là một câu thơ Tống. Thật là rõ ràng chữ thạch bản, chữ tuy nhỏ bằng con kiến, nhưng đeo kính vào xem, chữ không nhòe lấy một nét. Nhiều người thua cay, thường chỉ tự trách mình xem cổ thi ít quá và tặc lưỡi kêu: "Cổ nhân dùng chữ úp mở uyển chuyển quá đi thôi. Họ cậy có tài, tự cho mình cái quyền hạ những chữ quá lắt léo, đem cái quyền lực của sáng tạo ra mà làm bọn mình đảo điên cả nhận thức và cả tiền bạc nữa. Còn ai biết đằng nào mà lần nữa". Ấy một năm lão Phó Sứ dùng lối thả thơ sanh tử như thế độ một đôi lần, đủ gỡ lại những bữa thua to. Chà! Nhưng mà nghĩ lắm lúc cũng tội. Vợ chồng họ nhiều khi thua nhẵn. Lắm bữa không có lấy một chữ tiền mà thửa dây đàn nữa. Và hai ông mụ phải vờ cáo bệnh nằm bệt một nơi có khi đến hàng tháng.
- Cụ Tuần trước ở đây, chơi không được lịch sự, thành thử vợ chồng ông Phó Sứ họ cũng đâm nhờn. Ai đời đi mặc cả với họ mỗi buổi đánh thơ xong, phải đưa cho mình một số nhất định là bao nhiêu, mặc dầu họ thua hay là được. Không những thế, Cụ lại còn quấy nhiễu họ giữa những tiếng bạc lớn. Lấy tiền nhà cái, lúc năm đồng, lúc mười chữ, tẹp nhẹp quá. Hình như Cụ còn chớt nhả với cả mụ Mộng Liên nữa.
- Thì cũng phải lấy hồ chút ít chứ sao? Có thế thì những buổi hội giảng đầu tháng bên tòa bên tỉnh xong, Cụ mới giữ các quan phủ huyện lại cho chớ? Vậy chớ ai trả tiền những mâm rượu linh đình giáo đầu cho mỗi cuộc thả thơ?
- Cái ông huyện Bình Khê, người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ. Ông ta chúa hay vờ vĩnh. Nhà cái chưa thả thơ xong, ông cứ vờ vĩnh giục ồn lên những là lâu và làng đặt tiền chậm như thế thì một đêm, phỏng thả được mấy câu thơ. Thế rồi ông vồ lấy lá thơ đặt ở giữa chiếu, dọa mọi người nếu không đặt tiền nhanh lên thì ông thổi tuột lá thơ ra và xin làng, nếu nghĩ lâu quá, thì đợi đến câu sau hãy đánh vậy. Mỗi lần ông cầm lên đặt xuống lá thơ, cái mẩu giấy tàu bạch cuộn tròn như tổ sâu kèn lại nới giãn dần ra một chút. Và ông đã hé nhìn được chữ gì viết trên đầu giấy, cuốn tròn tận vòng trong cùng lá thơ. Mắt ông ta nhanh như cái cắt. Có lần ông Phó Sứ vòng một chữ bút, ông huyện vờ xin thổi thế nào mà nhìn được cái nét sổ dài. Rồi là có bao nhiêu tiền đem đặt vào chữ bút đến tột cửa! Nhưng, mụ Mộng Liên xem chừng cũng hiểu, nên mỗi lần sau, ông huyện Bình Khê động tay vào lá thơ là mụ lại buông tay đàn, chận lấy giấy và nhìn trừng trừng vào giữa mặt ông huyện có tính gian giảo kia.
(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét